Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Vụ giết người bí ẩn (James H. Chase)

Chương 1


Chuông điện thoại nội bộ réo.

Chick Barley đang nhâm nhi li thứ hai buổi sáng, nghe tiếng chuông điện thoại anh rót thêm một chút uytky nữa, miệng lầu bầu chửi tục, rồi ấn nút.
Tiếng Glenda Kerry the thé trong máy:


- Bảo Dirk tới gặp đại tá ngay, mà nhanh lên đấy!


Đoạn cô ta cúp máy. Chick nhìn tôi, lúc đó đang ngồi ở bàn làm việc:


- Cậu đã nghe mụ ta nói rồi đấy. Thật không thể chịu nổi. Khi mà một mụ đàn bà…


Không đợi nghe hết câu tôi đã lao ra khỏi phòng, chạy thục mạng dọc theo cái hành lang rộng mênh mông dẫn tới văn phòng của đại tá Victor Parnell.


Của đáng tội, tôi mới vào làm việc cho “Hãng thám tử tư Parnell” được đúng một tuần. Đây là một hãng nổi tiếng nhất và cũng đắt giá nhất của vùng bờ biển Đại Tây Dương này. Nó được đặt trên tầng cuối cùng của tòa nhà Truman, đại lộ Paradise, thành phố Paradise, bang Floridạ Hãng chủ yếu phục vụ đám khách hàng giàu có và chịu chơi và tôi vẫn còn chưa hết cảm giác thán phục trước bầu không khí sang trọng toát ra từ nơi này.


Nguyên là một cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh Việt nam, đại tá Parnell nhờ vào số tài sản được thừa kế từ người cha, đã lập ra hãng này khoảng năm năm trước và ngay lập tức đã nổi tiếng khắp vùng. Hãng có hai mươi thám tử nguyên là các nhân viên cảnh sát hoặc quân cảnh, làm việc theo từng nhóm hai người. Tôi thế chỗ cho một người trong số họ và thật may mắn được làm việc cùng với Chick Barley, nguyên là một trung úy quân cảnh, một anh chàng to con với mái tóc hung và được xem là điều tra viên giỏi nhất của Parnell.


Tôi đúng là may mắn được tuyển vào làm việc ở đây, vì số người đệ đơn xin vào có cả đống. Tôi kiếm được chỗ này chỉ bởi vì trước kia cha tôi có giúp ông Parnell một việc gì đó. Chính xác là việc gì thì tôi không bao giờ biết, nhưng đại tá thì không quên.


Trong suốt ba mươi năm, cha tôi đã lãnh đạo “Hãng điều tra Wallace” ở Miami, chuyên về các vụ ly hôn. Học xong, tôi vào làm nghề điều tra viên cho cơ quan này khoảng mười năm. Cha tôi đã truyền cho tôi tất cả các ngón nghề mà ông biết, nghĩa là chả thiếu một thứ gì. Nhưng rồi mệt mỏi vì tuổi tác, ông quyết định xin nghỉ hưu. Hãng lâm vào tình trạng khó khăn, có lúc nó chỉ còn có ba người cộng với tôi. Khi cha tôi về hưu, tôi trở thành điều tra viên duy nhất, nhưng thực tế cũng chẳng có gì mà làm. Đúng lúc đó đại tá Parnell lại đang tìm một người thay thế cho một gã điều tra viên vừa mới bị phát hiện là một tên lừa đảo. Cha tôi bèn viết thư cho ông nói rằng sẽ không tồi nếu ông nhận tôi vào chỗ đó. Cuộc hội kiến đã diễn ra khá suôn sẻ và từ đó đến nay tôi làm cho hãng Parnell.


Ban đầu, trong một tuần lễ tôi cùng với Chick lo về vụ trộm tại một trạm bán xăng tự động. Đó là một công việc chẳng có gì thích thú, nhưng đối với các điều tra viên thì các công việc loại như vậy thường gặp như cơm bữa, chẳng hạn như theo dõi một bà vợ hoặc một ông chồng, tìm người mất tích hoặc đại loại như vậy. Để trở thành một thám tử giỏi cần phải có tính kiên nhẫn, bền bỉ và óc tò mò. Tôi có đủ các phẩm chất đó và thêm vào đó còn có nhiều hoài bão nữa.


Đại tá Parnell cộng tác rất chặt chẽ với cảnh sát ở Paradise Citỵ Nếu nghi ngờ một vụ nào đó có dấu hiệu tội phạm, Parnell sẽ báo ngay cho Terrel, chánh cảnh sát thành phố. Về phần mình, Parnell cũng nhận được sự hợp tác đầy đủ từ phía cảnh sát, một điều hết sức quan trọng đối với điều tra viên.


Những người giàu có thường giao cho hãng những công việc rất hệ trọng mà cảnh sát không bao giờ nghe nói tới: những vụ tống tiền, các cô tiểu thư bỏ trốn theo những gã cầu bơ cầu bất, những cặp vợ chồng nghiện ngập, những chàng công tử đồng tính luyến ái và đủ thứ linh tinh khác. Những vụ việc này được giữ tuyệt mật và chính ở đây Parnell đã hốt bạc. Những gia đình giàu có thường tới tiết lộ với ông những chuyện kín như thế với điều kiện phải giữ bí mật hoàn toàn. Chính Chick đã cho tôi biết điều đó. Anh bảo tôi, rồi một ngày nào đó cậu cũng sẽ được nâng bậc vì đã giúp những người giàu có che đậy được những vấn đề của họ.


Tôi gõ cửa phòng Parnell, đứng đợi một lát, rồi bước vào một căn phòng rộng, bày biện tiện nghi hoàn toàn trái ngược với căn phòng chật chội, tối tăm và ảm đạm của cha tôi trước kia.


Ông đang đứng ngắm biển và hàng cây số bãi biển qua chiếc cửa sổ lớn nhìn ra đại lộ Paradisẹ Thấy tôi vào, ông quay lại.


Parnell là một người đàn ông cao lớn, tuổi trạc lục tuần. Gương mặt phong sương đỏ au, đôi mắt xanh nhỏ tinh anh và cái miệng khinh khỉnh như nhắc nhở mọi người đừng bao giờ quên rằng ông đã từng là một người lính.


- Dirk hả? Vào đây và ngồi xuống đi, - Ông nói.


Ông bước lại gần bàn làm việc và thả cái thân hình đồ sộ của mình xuống chiếc ghế phôtơi cũng vĩ đại không kém.


- Thế nào, cháu đã bắt đầu quen chưa?


Tôi rụt rè ngồi xuống mép ghế. Đứng trước Parnell bao giờ tôi cũng cảm thấy nhút nhát. Ngay cả Chick, người đã từng làm việc nhiều năm với Parnell, cũng phải thú nhận rằng trước mặt Parnell anh ta cũng trở nên mất tự chủ.


- Thưa bác, cháu đã quen rồi, - tôi nói.


- Chick có nói với bác là cháu làm việc rất tốt. Mà cũng phải thôi. Cha cháu đã từng là một thám tử tuyệt vời. Cháu đã được đào tạo ở một môi trường tốt.


- Cám ơn bác.


- Bác có một việc định giao cho cháu đây. Cháu hãy đọc cái này đi. - Ông nói và đẩy về phía tôi một bức thư đặt trên bàn.


Nét chữ trong thư nguệch ngoạc, giấy viết nhom nhem cứ như được đặt viết trên một mặt bàn bẩn thỉu.


Ngõ Cá Sấu


West Creek,


Thưa Đại tá Parnell,


Khi con trai tôi chết trận, ngài đã có lòng tốt cho tôi biết cháu đã hy sinh trong hoàn cảnh nào và còn cho tôi biết ngài đã đề nghị cho cháu được truy tặng Huân chương Danh dư.


Tôi được biết rằng hiện ngài đang có một hãng thám tử tư ở Paradise City, gần nơi tôi sinh sống. Tôi cần một thám tử. Đứa cháu nội tôi vừa bị mất tích. Cảnh sát khu vực chẳng quan tâm gì tới chuyện này. Tôi nhất định phải biết cháu tôi hiện nay ra sao. Tôi gửi kèm theo đây một trăm đôla cho thám tử tìm giúp tôi cháu bé. Tôi không thể trả cho ngài nhiều hơn, nhưng tôi trông cậy vào sự giúp đỡ của ngài vì những gì con trai tôi đã làm cho trung đoàn của ngài.


Xin chân thành cám ơn ngài.


Fredrick Jackson


Qua Glenda Kerry, người cùng với viên kế toán Charles Edwards chịu trách nhiệm về tài chính của hãng, tôi được biết rằng hãng chỉ tiếp nhận những khách hàng có thể đặt cọc không dưới năm ngàn đô và chi ngay trước một ngàn đôlạ Tôi nhíu mày nhìn Parnell.


- Đúng thế, - Ông nói khi đoán được ý nghĩ của tôi. - Đôi khi chúng ta vẫn nhận được những bức thư yêu cầu thám tử như thế này từ những người không có tiền. Và Glenda đều đã từ chối khéo. Nhưng lần này thì khac, - Ông ngắt lời để châm một điếu xìgà rồi nói tiếp - Cháu có nghe nói về Mitch Jackson không?


- Thưa bác có.


Cái tên này cho tôi một khái niệm lờ mờ về một điều gì đó, nhưng cụ thể là gì thì tôi không biết.


- Mitch Jackson vốn là hạ sĩ quan trong cơ quan tham mưu của bác. Bác chưa bao giờ từng biết một người lính như vậy. (Parnell nheo mắt vẻ nghĩ ngợi). Một tay tuyệt vời. Cực kỳ hiệu quả và dũng cảm. Chính vì thế mà chúng ta phải giúp đỡ cha cậu ấy, Dirk ạ. Chúng ta sẽ nhận một trăm đôla của ông ta và sẽ làm tất cả những gì có thể cho ông ấy. Cháu hiểu chứ?


- Vâng, cháu hiểu.


- Cháu sẽ hoàn toàn lo vụ này. - Parnell nhìn tôi với con mắt nhà binh và nói tiếp. - Cháu sẽ tới gặp ông già và cố gắng biết được điều gì làm cho ông ta lo lắng như vậy. Hãy cư xử với ông ấy như với một nhân vật quan trọng, cháu hiểu chứ?


- Cháu hiểu.


- Cháu hãy đi tìm hiểu và về báo cáo cho bác. Có các chi tiết trong tay, ta mới xem có thể sẽ làm được gì. Cháu sẽ lên đường ngay sáng mai. (Ông nhìn xoáy vào mắt tôi). Đây là cơ hội để cháu chứng tỏ khả năng của mình. Cháu hiểu chứ? (Ông ném tờ một trăm đô xuống bàn). Đây là tiền chi phí cho cháu.- Và với một nụ cười tinh quái, ông nói thêm. - Và cấm không hé một lời nào với Glenda đấy. Nếu biết bác nhận lời một khách hàng chỉ trả có một trăm đô cô ta sẽ tức điên lên mất.


- Vâng, thưa bác.


- Tốt lắm. Đừng có lề mề, chúng ta không có nhiều thời gian đâu, nhưng bác muốn vụ này phải được giải quyết.


Nói đoạn, ông ra hiệu cho tôi có thể đi. Tôi trở về văn phòng cùng ngồi chung với Chick. Anh đang nghiên cứu tập hồ sơ dày cộm về các nhân viên của trạm bán xăng tự động mà chúng tôi đã cùng nhau điều trạ Thấy tôi, anh ngước mắt lên:


- Có gì mới không?


Tôi ngồi xuống ghế và kể lại toàn bộ câu chuyện.


- Mitch Jackson à? (Anh huýt một tiếng sáo dài). Một gã cực kỳ đấy! Hồi làm tham mưu trưởng cho đại tá, mình đã từng làm việc với hắn. Mình không hề biết hắn có vợ kia đấy. Chắc hắn đã cưới trong tháng nghỉ phép. Hắn chưa bao giờ kể về chuyện này cả. (Chick nhìn tôi với vẻ trầm tư). Đại tá có kể cho cậu hắn đã bị chết như thế nào không?


- Không


- Đó là một bí mật quân sự. Nhưng tốt nhất là cậu nên biết để không nói hớ trước mặt ông già hắn. Và nhớ giữ kín đấy.


- Hắn đã chết thế nào?


- Một trò nhầm lẫn kinh điển của quân đội ấy mà. Người ta gửi một đội tuần tra gồm hai mươi người vào một khu rừng rậm bị nghi là có Việt cộng. Nguyên do là trước đó có quá nhiều người bị những tay súng phục kích bắn hạ, làm cho việc tiến quân bị chậm trễ. Đội tuần tra do một hạ sĩ già chỉ huỵ Họ có nhiệm vụ rà soát khu rừng và phát hiện quân phục kích. Các đơn vị còn lại của trung đoàn đợi trên ngọn đồi. Tổng hành dinh lúc đó biết rằng trung đoàn đã bị bao vây. Mitch rất muốn tham gia trong đội tuần trạ Hắn là kẻ chỉ thích hành động, nhưng lần này đại tá không cho hắn đi. Đội tuần tra vừa mới đi vào rừng thì bộ tham mưu cho biết rằng các máy ném bom vừa mới cất cánh để thiêu hủy cánh rừng bằng bom napan. Một thằng chó chết ở lực lượng không quân đã không đếm xỉa đến thông báo của đại tá về đội tuần tra vừa mới đi vào rừng và cứ cho máy bay ném bom cất cánh. Lúc đó đã quá muộn để gọi họ quay trở lại. Mitch lập tức nhảy lên một chiếc xe jeep và phóng đi. Đại tá hét gọi hắn quay lại, nhưng hắn chỉ nghĩ tới hai mươi đồng đội và không gì có thể giữ được hắn. Hắn phóng như bay và ít phút sau chiếc xe đâm vào một gốc cây. Hắn bỏ xe chạy bộ, vừa chạy vừa hét gọi những người trong đội tuần tra quay lại. Mười bảy người quay lại kịp ra khỏi rừng đúng lúc máy bay bắt đầu rải bom napan. Người ta thấy Mitch trở về cùng với họ. Nhưng đột nhiên hắn dừng lại và chợt thấy rằng còn thiếu ba người. Hắn ra lệnh cho mười bảy người vừa được cứu sống trở về ngọn đồi, còn mình hắn quay lại rừng. Cánh rừng lúc đó đã bốc cháy và đám cháy mỗi lúc một lan rộng. Đó là một hành động cực kỳ điên rồ nhưng cũng cực kỳ dũng cảm mà tôi không bao giờ muốn thấy lại.


- Rồi sau đó thì sao?


- Mitch đã chết, sau khi cứu sống được mười bảy mạng người. Phần xương thịt còn lại của hắn chỉ đựng đầy một cái túi du lịch. May mà còn tìm được chiếc vòng thép ghi số hiệu chúng tôi mới biết rằng đó chính là xác hắn.


- Thế còn ba người kia?


- Chẳng còn gì. Trừ mấy mẩu xương và dăm ba mẩu thịt đã cháy thui. Điều tệ hại nhất là trong rừng lại chẳng có một tên Việt cộng nào. Họ đã rút từ lâu trước khi chúng tôi đến. Viên tướng không quân bị thuyên chuyển. Đại tá vẫn làm ầm ĩ cả lên nhưng cấp trên đã buộc ông phải im tiếng. Ông đòi phải truy tặng Mitch huân chương Danh dự. Và người ta đã tuyên dương công trạng của Mitch là đã cứu sống được mười bảy đồng đội và bị Việt cộng bắn hạ trong lúc dẫn mọi người thoát ra khỏi ổ phục kích. (Chick nhún vai). Dù sao thì đối với ông già hắn điều này cũng ít khủng khiếp hơn là sự thật.


- Cám ơn anh đã cho tôi biết chuyện này. Tôi sẽ chú ý khi nói chuyện với ông già hắn.


Chick kéo tập hồ sơ về phía mình.


- Chà, mình rất muốn biết ông già hắn là người thế nào. Nếu như giống ông con thì phải coi chừng đấy!


Sáng hôm sau, với một chiếc vali nhỏ và tấm bản đồ tỉ lệ lớn, tôi lên đường tới West Creek trên chiếc ôtô của hãng. Mặc dù phần lớn thời gian tôi sống ở Florida, nhưng vùng này đối với tôi hoàn toàn xa lạ. Theo bản đồ tôi biết rằng West Creek nằm cách hồ Placid về phía bắc vài cây số. Tôi cũng đã xem một cuốn sách hướng dẫn du lịch và biết rằng dân cư của West Creek chỉ có năm mươi sáu người, sống chủ yếu bằng nghề nuôi ếch. Vào mùa đông, việc đánh bắt khó khăn, giá ếch tăng vọt. Các nhà hàng xịn ở vùng bờ biển này đều có những khách hàng nặng túi rất thích món ếch.


Sau khi chạy gần ba tiếng, tôi cho xe dừng lại ở Searle, một làng phát đạt chuyên trồng cà chua, hạt tiêu, khoai tây và cách West Creek chừng vài cây số. Bữa sáng chỉ có một ly cà phê, nên bây giờ tôi cảm thấy đói cồn cào. Vả lại, chuyện vãn với dân nhậu thường là rất hữu ích đối với cánh điều tra viên chúng tôi trước khi tiến hành điều tra tại chỗ.


Tôi bước vào một quán ăn sạch sẽ, ngồi vào một bàn ở cạnh cửa sổ nhìn ra một đường phố lớn đậu kín xe tải chất đầy rau quả.


Một cô gái tiến lại gần và mỉm cười chào tôi. Cô bé khá xinh, tóc vàng, mặc quần bò bó và chiếc áo phông còn bó chặt hơn nữa.


- Anh gọi gì ạ? - Cô ta hỏi và chống tay lên bàn làm nổi rõ bộ ngực dưới làn áo mỏng.


- Có món gì đặc sản không? - Tôi hỏi và cố nén để không thọc một ngón tay vào ngực cô ta.


- Có món thịt gà rán. Không phải loại gà chết già đâu.


- Thôi được. Món ấy hợp với tôi đấy.


Tôi nhìn theo cô gái nhún nhảy đôi mông xinh nhỏ đi vào bếp. Chà, ở cái nơi khỉ ho cò gáy như Searle này mà cũng có những cô bé khêu gợi gớm.


Tôi nhận thấy trong quán còn có một ông già, vóc dáng cao lớn với hàng ria rậm muối tiêu, trạc bảy mươi tuổi. Ông ta mặc bộ complê đã cũ sờn, bẩn thỉu và nhàu nát.


Ông ta nhìn tôi, tôi mỉm cười và gật đầu đáp lại. Ông nhìn tôi như thăm dò khá lâu, rồi cầm cốc tiến đến bàn tôi.


- Chào vị khách lạ. - Ông nói và ngồi xuống ghế. - Ở cái xó rừng này hiếm lắm mới thấy một gương mặt lạ.


- Cháu lang thang qua đây chơi thôi mà. - Tôi đáp. - Cháu đang nghỉ hè.


- Thật thế à? (Ông uống một ngụm). Ở đây có khối thứ hay để xem. Ngày xưa đây là khu nuôi cá sấu. Mà bây giờ ở sông Peace cũng vẫn còn.


- Cháu đã xem cá sấu ở Everglages rồi. Hay lắm.


Cô gái đưa đến món gà rán và đặt uỵch xuống trước mặt tôi. Rồi cô quay lại nhìn ông già.


- Ông gọi gì thì gọi đi hay chỉ ngồi cho nóng ghế?


- Thì chả gọi là gì đây, - Ông già nói và giơ chiếc cốc lên. - Giá tôi trẻ hơn mười tuổi chắc tôi sẽ mời cô một thứ khác kia.


- Thì cứ nói là ba mươi tuổi đi, đã chắc gì tôi màng tới. - Cô gái cười gượng đáp rồi nhún nhảy bỏ đi.


Ông già lắc đầu:


- Bọn trẻ bây giờ không còn coi người già ra gì.


Tôi đã định nói bọn trẻ bây giờ chẳng có lý do gì phải tôn trọng người già, nhưng kìm lại được. Dây vào những chuyện như thế này chẳng có ích lợi gì.


Tôi bèn tấn công món gà rán.


- Xứ cá sấu, - Ông già lại lên tiếng. - Anh có nghe về Platt cá sấu không? Không à? Mà phải, anh còn quá trẻ mà. Ở đây có cả một truyền thuyết kia đấy.


Tôi gặm sái cả hàm, đúng là con gà chết già.


- Truyền thuyết?


- Phải. Anh biết không. Platt nấp trên bờ, đợi cho cá sấu nổi lên mới lao xuống quần nhau với nó. Anh ta xiên con cá và chọc hai ngón tay vào mắt nó. Không bao giờ trật cả, nhưng phải khỏe và gan lắm mới làm được như vậy. Hắn ta nói rằng bắn chết một con cá sấu, tốn một viên đạn.


- Đó là chuyện xưa rồi, - tôi đáp.


- Chỉ có duy nhất làm được chuyện đó. Nhưng rồi một hôm, điều bất hạnh đã xảy ra. Platt, chính anh ta, lại chết trên giường, nhưng ông già Fred Jackson thì mất trọn cặp giò.


Trong các cuộc điều tra, đôi khi nhờ chuyện vãn mà tôi vớ được cả mỏ vàng. Nhưng chưa bao giờ lại nhanh như lần này.


- Fred Jackson? – tôi thản nhiên hỏi. - Có phải là bố của Mitch Jackson, người hùng ở Việt nam không?


Ông già chằm chằm nhìn tôi.


- Chính thế. Làm sao anh biết Fred sống ở đây?


- Thì cháu có biết đâu. Chính bác vừa cho cháu biết đấy chứ.


Tôi nhìn thẳng vào mắt ông.


- Mà cháu còn chưa biết tên bác, tên cháu là Dirk Wallacẹ Bác làm nghề gì ạ?


- Silas Wood. Rất hân hạnh được làm quen với anh. Thế anh làm nghề gì?


- Cháu làm cho một hãng.


- Một hãng? Hãng nào vậy?


- Cháu đang đi tìm tư liệu cho các nhà văn.


Xem ra có ấn tượng lắm.


- Thật thế không? Bác thì đã về hưu rồi. Bây giờ trồng cà chuạ Nhưng cạnh tranh khiếp quá. Bác bán sạch rồi.


- Bác Wood này, thế ông Fred mất cặp giò trước hay sau khi con ông ấy chết?


Câu hỏi của tôi có vẻ như làm cho ông già ngạc nhiên. Ông lấy tay vuốt chiếc mũi dài ngoằng của mình vẻ nghĩ ngợi.


- Vì anh đã hỏi, - cuối cùng ông già cũng trả lời. - Fred mất cặp giò khi Mitch còn là một thằng nhóc. Bây giờ ông ấy chắc cũng phải ngoài bảy mươi rồi. Mitch phải chăm sóc bố cho tới lúc nó nhập ngũ. Lúc đó Fred đã quen sống thiếu cặp giò rồi. Ông già đi nạng mà xoay xở giỏi ra phết, lại còn chiếm quán quân về câu ếch và kiếm ăn cũng khá lắm.


- Bác có biết rõ về Mitch không?


- Rõ quá đi ấy chứ! (Ông già lại vuốt chiếc mũi dài). Ở cái xó xỉnh này ai mà chẳng biết thằng Mitch. Không ai lại nghĩ rằng nó lại trở thành anh hùng. Đúng là không thể xét đoán bọn trẻ được. Thì như con bé vừa nãy đấy. Nó có thể lấy chồng giàu sang, nhưng không bao giờ là anh hùng dân tộc được. Tôi cầm chắc như vậy.


- Mitch là đứa cứng đầu lắm à?


Ông già uống nốt ly rượu rồi buồn bã nhìn chiếc ly rỗng không.Tôi hiểu ý cầm cốc ra hiệu cho cô gái đang đứng tựa ngực vào quầy nhìn chúng tôi.


Cô ta mang rượu tới và đặt trước mặt ông già.


- Đây là ly thứ hai và cũng là cuối cùng đấy nhé. - Cô gái nhìn tôi nói tiếp. - Ông ta không chịu nổi tới quá hai ly đâu, đừng có thử.


Nói đoạn, cô ta lại quay trở lại quầy, Wood nhìn tôi vẻ tinh quái.


- Tôi đã nói với anh rồi đấy. Bọn trẻ không còn coi người già ra gì.


- Cháu hỏi bác có phải Mitch là thằng cứng đầu lắm phải không?


Tôi đã đánh vật xong với đĩa gà quay, và mừng là mình đã ăn xong. Hàm mỏi nhừ.


- Cứng đầu ấy à? Thế là còn ít. Phải nói nó là thằng quỷ sứ mới đúng. - Wood uống một ngụm rồi nói tiếp. - Lúc nào hắn cũng có chuyện với cảnh sát. Trong vòng một cây số không có đứa con gái nào được yên với hắn. Một thằng ăn trộm và chuyên bắn trộm thú rừng. Tôi không thể nói chắc nó đã ăn cắp bao nhiêu cà chua của tôi và bao nhiêu con gà, con ếch của những người khác đã biến mất. Cảnh sát biết mười mươi Mitch la kẻ trộm. Nhưng hắn ma lanh lắm. Rồi lại còn chuyện đánh lộn nữa chứ. Thường thì tối nào hắn cũng kiếm chuyện cãi cọ với ai đó trong làng. Hắn chỉ thích đấm đá thôi. Một hôm có bốn thằng cậy đông xông vào đánh Mitch. Người ta đã phải đưa cả bốn đứa vào bệnh viện. Tôi không dây với hắn. Thực ra tôi cũng sợ hắn. Mà chả phải tôi, cảnh sát cũng ngán hắn. Cả làng đều thở phào khi hắn nhập ngũ và khỏi phải nhìn thấy nó nữa. - Ông già ngừng nói và làm thêm một ngụm nữa. - Và rồi nó được nhận huân chương Danh dự, nó có quyền được tha thứ và người ta cũng quên chuyên cũ đi. Bây giờ cả làng tự hào về nó. Ấy là tôi nói người ta xá cho quá khứ ấy mà.(Ông nháy mắt với tôi). Khối đứa con gái khóc suốt đêm khi nghe tin hắn chết đấy. Chỉ cần hắn búng ngón tay một cái là khối con bé dạng chân ra.


Tôi chăm chú nuốt từng lời của ông già.


- Thế cha hắn có giống hắn không?


- Fred ấy à? Không. Ông ta là một người lao động trung thực. Cục tính nhưng đàng hoàng lắm. Khi bị mất cặp giò tính nết ông lão thay đổi hẳn. Trước kia ông ấy hay xuống làng tán gẫu với bạn bè. Sau này thì tịt hẳn. Ông không muốn gặp bất cứ ai. Ông vẫn đi bắt ếch với Mitch, nhưng không bao giờ xuống làng và tiếp đón rất cục cằn những ai tới thăm. Bây giờ cũng vậy, tuổi cao rồi ông ấy vẫn đi bắt ếch. Một tuần một lần người ta đến mua rồi chở đi. Ông già chỉ ăn thỏ và cá. Dễ đến hơn mười năm tôi chưa gặp ông ta.


- Thế còn mẹ Mitch? Bà ấy còn sống không?


- Tôi không biết. Mà cũng chẳng ai biết. Người ta đồn rằng có bà khách du lịch tới thăm và chụp ảnh Fred cùng các con cá sấu. Ấy là tôi nói hồi ông ta còn trẻ cợ Chuyện đàn bà con gái chắc ông ta cũng như thằng Mitch thôi. Chuyện thật hư thế nào tôi không biết, chỉ biết rằng vào một hôm đẹp trời, người ta thấy Fred bế một đứa bé trên taỵ Ai đó đã bỏ nó trước túp lều của ông tạ Đó là thằng Mitch sau này. Ấy là ở Searle này người ta đồn như vậy. Fred nuôi thằng bé chật vật lắm, nhưng ông ấy cũng cho nó ăn học hẳn hoi. Và sau khi mất cặp giò, Mitch đã nuôi sống ông tạ Từ đó Mitch chăm sóc ông già cho tới tận khi nó biết chạy theo lũ con gái. Đó là lời khen duy nhất tôi có thể nói về nó. Nó ngưỡng mộ Fred, điều này thì không ai có thể nghi ngờ.


- Hay đấy chứ. - Tôi nói.


- Đúng như vậy. Người ta đã nói nhiều về chuyện này khắp làng. Một anh hùng dân tộc. Đào đâu ra ở những làng nhỏ như làng chúng tôi. Rồi ông ta lại có một đứa cháu nội nữa chứ.


Tôi làm ra vẻ không mấy quan tâm.


- Con trai của Mitch?


- Đúng vậy. Mà cũng ly kỳ lắm. Đâu như chín năm trước, có một thằng bé ghé qua đây. Nó khoảng tám chín tuổi gì đấy. Tôi còn nhớ là đã gặp nó tới. Trông cứ như một thằng lang thang vô gia cự Bẩn thỉu, tóc tai bù xù, giày rách tướp. Nó xách một chiếc vali cũ xộc xệch chằng bằng dây. Tôi thương thằng bé quá. Tôi vốn yêu trẻ mà. Tôi hỏi nó tới đây làm gì. Nó trả lời lưu loát lắm. Nó bảo nó đi tìm Fred Jackson, ông nội của nó. Tôi sững cả người. Rồi tôi chỉ cho thằng bé nhà của ông nó. Thằng bé xem chừng đói lả đến nơi, tôi mời nó ăn sáng cùng, nhưng nó lịch sự từ chối và nói rằng nó muốn gặp ông nó càng sớm càng tốt. Đúng lúc đó chiếc xe tải nhỏ của Josh, viên bưu tá, chuẩn bị chạy. Tôi nhờ anh ta chở giúp thằng bé. Hồi đó Mitch đang tại ngũ. Làm sao mà ngờ có chuyện như thế này, thế là cả làng đàm tiếu um cả lên. Rồi thầy giáo làng đến gặp Fred. Trái với thông lệ, lần này ông giáo được Fred đón tiếp rất tử tế. Rốt cục, Johnny Jackson cũng được đến trường. Nó xuống đây học bằng xe đạp.


- Thế Johnny co giống cha nó không?


- Chẳng giống một tẹo nào. Thằng bé người nhỏ nhắn, xinh trai, tính tình điềm đạm, lịch sự và có lẽ hơi ủy mị, nhưng học rất giỏi. Những đứa con trai khác không thích chơi với nó. Nó không thích giao du và không bao giờ nói về Mitch. Khi bọn trẻ hỏi, nó đáp rằng nó không hề biết bố nó. Nó ra đời sau khi bố nó sang Việt nam. Khi người ta thông báo rằng Mitch đã chết và được trao huân chương, thằng bé không đến trường nữa. Khi ấy nó mới mười bốn tuổi. Thầy giáo làng đến tìm gặp Fred, nhưng ông đã đuổi ra, không tiếp. Từ đấy đã sáu năm rồi, không ai còn gặp thằng bé nữa. Tôi chắc thằng bé khốn khổ không chịu nổi đã chuồn rồi. Mà làm sao nó có thể sống nổi cơ chứ? Cái lão Fred ấy nhiếc móc thậm tệ lắm. (Wood uống cạn ly, buông một tiếng thở dài, rồi lấy chiếc đồng hồ bạc cũ kỹ ra xem giờ). Thôi đã đến lúc tôi phải đi rồi. Bà vợ tôi nấu bữa trưa nóng sốt chắc đã đợi tôi cả tiếng rồi. Về muộn quá bà ấy lại càu nhàu. (ông đứng dậy bắt tay tôi). Chúc anh một kỳ nghỉ hè vui vẻ. Hy vọng sẽ gặp lại. Rồi ta sẽ có dịp lai rai với nhau.


Sau khi ông già đi khỏi, tôi ra hiệu cho cô hầu bàn mang cà phê tới. Lúc này rất đông cánh lái xe tải vào ăn trưa. Không một ai để ý đến tôi. Về phần mình , tôi cũng chỉ quan tâm tới thổ dân ở đây mà thôi.


Cô gái mang cà phê tới.


- Anh đừng có tin lời lão già ấy, - cô gái nói và đặt tách cà phê lên bàn. - Lão ấy lẩm cẩm rồi. Mà lão nói gì với anh vậy?


- Về Mitch Jackson ấy mà.


Gương mặt cô gái sáng lên vẻ xúc động.


- Anh ấy mới là đàn ông, một người đàn ông đích thực. (Cô ta nhắm mắt lại rồi thở dài). Mitch đã mất sáu năm rồi, nhưng ở đây ai cũng còn nhớ anh ấy. Em chỉ gặp anh ấy có một lần, hồi còn bé, nhưng không bao giờ quên được.


- Nhưng ông Wood có nói với tôi rằng hắn là thằng quỷ sứ. Nhưng tôi nghĩ một người đã được huân chương Danh dự chắc là tuyệt vời lắm.


Tôi nói vậy chẳng qua bởi vì cứ theo nét mặt hân hoan của cô ta, tôi hiểu rằng đối với cô Mitch còn hơn cả Elvis Presley đối với hàng triệu thanh niên.


- Thì đúng quá đi chứ! Ai có thể nghĩ rằng thằng con trai anh ấy lại ẻo lả như vậy.


Tôi nhấm nháp ly cà phệ Đúng là một ngày may mắn của tôi.


- Thật thế ư?


- Tất cả bọn con gái ở trường đều chạy theo nó, vì Mitch là bố nó. Nhưng nó lẩn như thỏ. Đúng là đồ thỏ đế!


Một tay lái xe hét gọi món ăn. Cô gái nhăn mặt rồi chạy đi. Tôi vừa nhâm nhi ly cà phê vừa ngẫm nghĩ lại những điều mình vừa biết được. Theo Wood, thì từ khi biết tin Mitch tử trận, người ta không nhìn thấy thằng bé nữa. Cũng theo ông già thì mọi người trong làng đều nghĩ Johnny bỏ đi rồi. Chuyện này thì quả thật mình không hiểu. Nếu thằng bé đã biến mất từ sáu năm trước thì tại sao bây giờ Fred Jackson mới viết thư nhờ Parnell tìm hộ sau một thời gian dài như vậy?


Tôi quyết định phải biết thêm thông tin trứơc khi tới Ngõ Cá Sấu. Tôi ghi chép vắn tắt rồi bước ra đường phố náo nhiệt. Tôi nhìn quanh và thấy một tấm biển đề:


MORGAN & WEATHERSPOON


Món đùi ếch tuyệt hảo


Tôi chợt nhớ Fred Jackson chuyên bắt ếch. Biết đâu ở chả kiếm được ít thông tin. Theo hướng chỉ của mũi tên, tôi đi dọc theo một con đường nhỏ tới ngôi nhà có treo biển:


MORGAN & WEATHERSPOON


Chuyên bán ếch - Mời vào


Mùi tanh tưởi xộc ra từ bên trong hàng rào gỗ cao khiến tôi suýt nôn mửa. Tôi đẩy cửa bước vào một cái sân rộng đậu đầy những chiếc xe tải mui trần. Xe nào cũng xếp đầy những chiếc thùng tôno, từ đó vọng ra những tiếng rột roạt.


Ở phía đối diện là một toà nhà bêtông. Phía sau một cửa sổ lớn tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo blu trắng ngồi làm việc. Tôi bước lên bậc tam cấp, mở cửa và bước vào một căn phòng nhỏ có điều hoà nhiệt độ. Tôi phải khép ngay cửa lại để không cho mùi tanh từ sân lọt vào.


Người đàn ông niềm nở đón tôi. Ông ta chạc bốn mươi lăm tuổi, gầy gò với mái tóc đen lưa thưa và nét mặt tiều tụy.


- Tôi có thể giúp gì ông đây? - Ông ta đứng dậy hỏi và chìa tay cho tôi. - Tôi là Harry Weatherspoon.


- Tôi là Dirk Wallace, - tôi nói và bắt tay Harrỵ - Thưa ông Weatherspoon, tôi muốn phiền ông ít phút, và tôi hy vọng là ông không từ chối.


Nụ cười nở rộng trên môi, nhưng đôi mắt sắc lạnh của ông ta nhìn tôi có vẻ lo lắng.


- Hiện thời thì tôi có thời gian, ông Wallace ạ. Một nửa giờ nữa thì tôi có việc bận, nhưng bây giờ tôi còn phải ăn trưa. Mời ông ngồi và cho tôi biết ông có chuyện gì.


Chúng tôi cùng ngồi xuống.


- Tôi hiện làm cho một hãng chuyên thu thập thông tin cho các nhà văn và nhà báo, - tôi lặp lại trò ngụy trang đã khá thành công cho đến lúc này. - Nhiệm vụ của tôi là chỉ cung cấp các sự kiện. Còn họ thì khai thác và kiếm bạc triệu đấy. Tôi thì chẳng xơ múi gì. (Tôi cười buồn). Hiện tại tôi đang điều tra về Mitch Jackson, vị anh hùng dân tộc của chúng ta cùng với những con ếch và cha anh tạ Một tạp chí lớn đề nghị viết một bài báo về Mitch.


Người đàn ông gãi cái đầu đã hói tới gần đỉnh


- Còn có gì mới nữa đâu. Người ta đã viết hết rồi còn gì.


- Ông là người biết mọi chuyện, ông Weatherspoon ạ. Nhưng tôi muốn đề cập vấn đề này dưới một góc độ khác.


Người đàn ông nhún vai.


- Về ếch thì tôi có thể nói chuyện thoải mái với ông, nhưng Mitch thì tôi chưa gặp bao giờ. Vả lại, theo những chuyện mà người ta đồn đại về anh ta, thì tôi cũng chẳng lấy đó làm thiệt. Thôi ta nói về những con ếch vậy. Chắc ông đã ngửi thấy mùi rồi chứ? Rồi cũng phải quen thôi. Loài ếch có mùi rất tanh tưởi và nó sống ở những chỗ cũng chẳng thơm tho gì. Nhưng đùi ếch thì bán hơi bị đắt. Riêng tôi thì tôi chẳng thú cái món này, nhưng nhiều kẻ giàu có lại rất khoái. Đây là cả một nền công nghiệp phát đạt đấy. Chúng tôi thu gom ếch từ những người nuôi, sơ chế rồi đem bán cho các khách sạn.


Ông ta ngả người vào lưng ghế và cứ theo cái điệu bộ hùng hồn của ông ta tôi hiểu những con ếch quý giá với ông ta tới mức nào.


- Tất nhiên khâu khó khăn nhất là đánh bắt, - Ông ta nói tiếp, - Nhưng may đó không phải là nhiệm vụ của tôi. Fred Jackson là người cung cấp chính cho chúng tôi trong vòng ba mươi năm quạ Không chỉ về số lượng đâu, mà cả chất lượng nữa. Khốn nỗi bây giờ chúng tôi không thể trông cậy vào ông ta được nữa. Ông ta đã già rồi… cũng như tất cả mọi người mà, có phải vậy không ông? (Ông ta lại cười lớn). Còn chuyện nuôi ếch thì thế này: người ta mua hoặc thuê một khoảnh đất có nhiều đầm lầy và ao hồ. Ông già Fred khôn lắm. Ông ta đã mua đất từ đời nào với giá rẻ như bèo. Ếch chỉ sống bằng côn trùng. Những người nuôi ếch như ông già Jackson ném thịt ôi vào đầm lầy. Thịt ôi sẽ thu hút bầy nhặng xanh to kềnh mà ếch rất khoái. Trong khi bầy ếch mải bắt nhặng, người ta cứ ung dung mà chộp ếch. Có thể nói Fred là chuyên gia về khoản này. Nếu thấy việc đánh bắt ban ngày chưa đủ, ông ta cho thắp đèn điện sáng trưng xung quanh khu đầm để thu hút lũ bướm và côn trùng. Ếch cũng ra ăn vào ban đêm, và đây là lúc để bắt chúng. Một con ếch cái ấp từ mười đến ba mươi ngàn trứng một năm. Chín mươi ngày sau, trứng nở ra nòng nọc. Chỉ cần khoảng hai năm là đã có thể xài được. (Ông ta lại cười). Thôi hội nghị xin được kết thúc ở đây.


- Cám ơn ông. - Tôi nói. - Đó đúng là những chi tiết mà tôi cần. (Tôi ngừng một lát trước khi tiếp tục). Nhưng ông lại cho rằng đó chẳng phải là một thiệt thòi gì đối với ông cả, mặc dù anh ta là một anh hùng dân tộc. Ông giải thích điều này thế nào?


Ông ta có vẻ hơi lúng túng và nhún vai.


- Ông Wallace ạ, trứơc hết ông cần biết rằng tôi không phải là người sinh ra ở đây. Cũng phải mất một thời gian người ta mới chấp nhận tôi. Tôi đã mua một số cổ phần của doanh nghiệp với Morgan lúc ông ta về hưu. Ông ta mới qua đời cách đây không lâu. Bây giờ thì mình tôi cai quản doanh nghiệp này. Mitch Jackson quá nổi tiếng ở đây vì đã được tặng huân chương, vì vậy tôi muốn ông đừng trích dẫn lên tôi làm gì. Đối với bọn thanh niên thì hồi ức về anh ta là một điều thiêng liêng, còn những điều tôi nói với ông chỉ là giữa chúng ta với nhau thôi.


- Không sao, - tôi nói. - Tôi sẽ không nhắc gì đến ông nếu ông đã muốn như vậy.


- Đúng là tôi muốn như vậy. (Ông ta nhìn tôi với vẻ nghiêm khắc và nói tiếp). Tôi tới vùng Searle này sau khi Mitch đã chết. Tôi đã được nghe đủ thứ chuyện về anh tạ Bọn trẻ trong vùng sợ anh ta lắm. Theo như họ nói thì anh ta là một thằng du thủ du thực bẩn thỉu. Nhưng khi Mitch được tặng huân chương, thì anh ta đã bước vào truyền thuyết của cả vùng rồi. Bọn con gái khóc như một lũ ngốc. Và bây giờ người ta nói về hắn cứ như là một ngôi sao nhạc pop.


Tôi không nói gì. Hồi còn trẻ thần tượng của tôi là Sinatrạ Tất cả bọn trẻ đều cần phải có thần tượng.


- Nếu ông cần những chi tiết về cá nhân Mitch thì có thể đến hỏi Abe Levị - Weatherspoon nói tiếp. Đó là một trong số những người lái xe tải của tôi chuyên đi thu gom ếch. Ông ta nhận ếch của Jackson từ nhiều năm naỵ (Nói đoạn, Weatherspoon xem đồng hồ). Giờ thì chắc ông ta đang ở nhà chế biến. Ông có muốn nói chuyện với ông ta không?


- Rất sẵn lòng và xin cám ơn ông nhiều, ông Weatherspoon ạ. Một câu hỏi cuối cùng, ông có thể nói gì về Fred Jackson?


Weatherspoon lắc đầu.


- Chẳng có gì để nói cả. Tôi đã gặp ông ta bao giờ đâu. Tôi nghe nói ông ta mất cặp giò vì đánh nhau với cá sấu. Trong thời gian ông ta dưỡng bệnh thì Mitch là người bắt ếch. Sau này ông ta cũng nhúc nhắc đi lại bằng nạng, nhưng sản lượng gần đây giảm đi nhiều. Ở tuổi của ông ấy thế cũng phải thôi. Theo như tôi nghe nói thì ông ấy là một người bủn xỉn nhưng trung thực.


Tôi đứng dậy.


- Tôi sẽ đi gặp Levi ngay bây giờ.


Weatherspoon chỉ tay qua cửa sổ.


- Ông ta ở cái nhà kho lớn kia kìa. Chắc là ông ta đang ăn trưa. (Ông ta cũng đứng dậy). Rất hân hạnh được làm quen với ông, ông Wallace ạ. Nếu ông muốn biết kỹ hơn về những con ếch thì ông đã biết tìm tôi ở đâu rồi đấy.


Chúng tôi bắt tay nhau. Tôi bước ra và ngay lập tức cái mùi tanh tưởi ấy lại vây lấy tôi.


Trong nhà kho mà Weatherspoon chỉ cho tôi có nhiều cô gái da đen đang lột ếch (cảnh tượng và mùi tanh làm cho tôi buồn nôn), và tôi thấy một ông già chừng sáu nhăm tuổi đang ăn món đậu trắng đựng trong một cái vỏ đồ hộp. Tôi không hiểu sao người ta lại có thể ngồi ăn giữa cái mùi tanh khó chịu này. Nhưng ông già bé nhỏ, béo lùn và săn chắc với bộ râu xoăn tít kia xem chừng vẫn bình thản ngồi ăn. Tôi nhắc lại với ông già những điều tôi đã nói với Weatherspoon. Rằng tôi đi thu thập thông tin cho hãng. Ông già cứ vừa ăn vừa nghe tôi nói, rồi ông nhìn tôi bằng đôi mắt xám lấp lánh ánh tinh quái vốn có của những người nghèo khổ.


Đã nhiều năm làm nghề săn tin, tôi thừa hiểu ý nghĩa của cái nhìn đó.


- Ông Weatherspoon có nói với cháu rằng bác có thể cung cấp một số thông tin, - tôi mào đầu. - Tất nhiên cháu không xin không bác. Năm đô, bác thấy thế nào?


Tôi rút ví ra lấy tờ năm đôla và ve vẩy trứơc mặt ông già.


- Năm đô chỉ là bắt đầu thôi. Tùy vào những điều bác nói…


Ông già giật năm đôla từ tay tôi nhanh như con thạch sùng đớp muỗi.


- Đồng ý. Thế anh muốn biết về cái gì?


- Hãy cho cháu biết về Fred Jackson. Hình như bác quen ông ta đã nhiều năm.


- Đúng vậy. Nhưng càng gặp tôi lại càng ít muốn lui tới nhà ông tạ Đó là một lão già độc ác. Đồng ý rằng phần lớn người ta rồi sẽ trở nên xấu tính nếu bị mất đi cặp giò, nhưng Fred thì lúc nào cũng vậy hà.


- Xấu tính ư? Có phải bác muốn nói ông ta là người keo kiệt?


- Tôi không muốn nói thế, mặc dù ông ta đúng là một gã keo kiệt. Ông ta là một kẻ xấu tính. Đó là loại người có thể làm những điều tệ hại ngay cả với người bạn thân nhất của mình một cách bình thản nhất trần đời. Vả lại, ông ta làm gì có bạn. Fred bẩn thỉu chẳng khác gì con trai hắn.


- Nhưng con trai ông ta được tặng huân chương Danh dự kia mà.


Levi nói với giọng đầy bực tức.


- Hắn được tặng là bởi vì hắn là một thằng cục súc, xấu tính và độc ác. Nó lúc nào cũng cắm đầu xông vào bất cứ đâu. Tôi thì cho đó không phải là dũng cảm, mà là ngu ngốc. Cả nhà Jackson đều là những kẻ xấu tính xấu nết. Họ chẳng quan tâm tới ai khác. Đã hơn hai chục năm nay, tuần nào cũng tới nhà lão, nhưng chưa bao giờ cả cha lẫn con mời tôi lấy một lon bia. Chưa bao giờ họ giúp tôi một tay xếp các thùng ếch lên xe. Mà những thùng này có phải nhẹ đâu. Tất nhiên, bây giờ khi Fred mất cặp giò rồi tôi đâu dám nhờ, nhưng khi thằng Mitch đứng ngay đó, nó cũng chỉ nhe răng và trắng dã mắt nhìn tôi làm vã mồ hôi. Trong khi những gia đình nuôi ếch khác ai cũng mời bia tôi, cũng đỡ tôi một tay chất thùng lên xe. Bố con Jackson thì không bao giờ. (Ông già nhìn cái vỏ đồ hộp, vét hết mấy hạt đậu còn sót lại và cho vào mồm). Tất cả cái trò rầm rĩ về chủ nghĩa anh hùng của Mitch làm tôi muốn nôn mửa. Thực ra dân ở đây ai cũng mừng là đã thoát được hắn.


Levi vẫn chưa cho tôi thông tin gì mới hơn so với Weatherspoon.


- Thế bác có gặp thằng cháu nội của Fred không?


- Chỉ một lần duy nhất. Tôi đánh xe tới thì thấy nó đang giặt giũ trong chiếc chậu gỗ nhỏ. Chắc Fred bắt nó làm để trả công đã nuôi nấng nó. Ngay khi thấy tôi, thằng bé chạy tót vào lán và lão Fred liền bước ra. Tôi chưa có dịp nào nói chuyện với thằng bé. Chắc nó đã ngán sống với Fred đến tận cổ nên sau khi nghe tin Mitch chết đã chuồn rồi. Tôi chỉ nhìn thấy nó một lần, mà cũng sáu năm rồi còn gì.


- Chắc bấy giờ nó cũng mười ba mười bốn tuổi rồi.


- Để tôi nghĩ xem nào. Thằng bé gầy gò chẳng giống nhà Jackson tẹo nào. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không biết nó có đúng là con của Mitch không. Mitch có kiểu mặt mà người ta thường thấy trong hồ sơ của cảnh sát. Còn thằng bé này có hạng lắm. Bọn trẻ cùng lớp đều phải thừa nhận điều đó. Chúng nói thằng bé này khác biệt với chúng. Chắc là nó giống mẹ.


- Thế bác có biết gì về chị ta không?


- Chẳng có ai biết gì hết. Chắc là đứa con gái nào đó mà Mitch đã chơi bời. Mà lũ này trong vùng có vô khối. Mitch chẳng bao giờ để chúng nó được yên. Nhưng đứa nào thì tôi không biết. Thằng bé có lẽ cũng có tính nết như bố nó. Tôi nhớ là tôi có gặp một đứa con gái ở đó. (Ông già ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu). Nhưng chỉ cách ở đây chừng bốn năm tháng gì đó, rất lâu sau khi thằng bé biến mất.


Cố gắng che đậy vẻ quan tâm của mình, tôi hỏi một cách thờ ơ.


- Bác kể cho cháu về cô bé ấy đi.


- Tôi cũng chỉ nhìn thoáng thấy nó thôi. Nó ngồi giặt bên cái chậu gỗ nhỏ như thằng bé ngày nào. Ngay khi tôi vượt qua chỗ ngoặt, con bé chạy tọt vào nhà. Khi Fred đi ra tội hỏi ông mới có người giúp việc à, ông ta chỉ ậm ừ tỏ vẻ khó chịu. Với ông ta đừng có hy vọng gì hơn. Tôi nghĩ chắc ông ta thuê ở thành phố về thay thế cho thằng cháu. Phải thú thật điều đó khiến tôi càng thêm tò mò. Tôi dò hỏi mọi người, nhưng chẳng ai biết con bé làm việc ở nhà Fred. (Ông già nhún vai). Tôi không bao giờ gặp lại con bé nữa.


- Con bé nhìn thế nào? Chừng bao nhiêu tuổi? Levi liếm chiếc thìa đang giữ trong tay và cho vào túi.


- Nó còn trẻ, mảnh mai với mái tóc vàng thả dài.


- Nó ăn mặc ra sao?


- Quần bò, còn gì nữa thì tôi không nhớ. Có thể thằng Johnny cũng ở đó và lòng thòng với con bé. Fred chắc cáu lắm. Ngày xưa ông ta cũng bực vì những chuyện trai gái của thằng Mitch. (Levi ngừng lời và lại nhìn tôi bằng cái nhìn tinh quái). Anh có quan tâm tới chuyện này không?


- Một câu hỏi cuối cùng. Có vẻ như Mitch là một gã thích cô độc. Hắn không có một người bạn nào sao?


Levi gãi râu.


- Nó cũng có giao du với một thằng du thử du thực như hắn. (Ông già như nhìn vào cõi hư vô). Nhưng tên nó thì tôi quên rồi.


Tôi rút ra một tờ năm đôla nữa nhưng giữ ở ngoài tầm với của Levị Ông già nhìn tờ giấy bạc, gãi đầu rồi gật gật đầu.


- À, tôi nhớ ra rồi. Hắn tên là Syd Watkins. Hắn đăng lính cùng đợt với Mitch. Cả làng đều mừng là cả hai thằng đều đi cho khuất mắt. Cha mẹ nó đều là người tử tế cả. Họ có một cửa hàng thực phẩm ở Searlẹ Nhưng khi người vợ chết, ông ta cũng bỏ luôn. Thiếu bà ấy, ông không thể một mình trông nom cửa hàng được. Thằng Syd thì cả đời không động chân động tay lấy một giờ.


- Thế Mitch là bạn của Syd à?


Ông già nhăn mặt.


- Chuyện đó thì tôi không biết. Chỉ biết bọn nó kết bè hết đảng quậy phá. Khi Mitch gây gổ với ai đó, thằng Syd không bao giờ dây vào. Cứ như nó là cái đầu còn thằng Mitch là chân tay ấy.


- Thế sau chiến tranh Syd có trở về không?


- Không. Thi thoảng tôi có lai rai với ông già nó. Ông già ngày nào cũng chờ tin nó, nhưng đến tận bây giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi. Người ta chỉ biết Syd đã giải ngũ, đã về Mỹ và mất hút. Theo tôi thì chắc nó chẳng làm được điều gì tốt lành đâu.


Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa tờ năm đôla cho ông già.


- Nếu cháu cần điều gì nữa cháu sẽ còn đến gặp bác. – Tôi nói.


Tôi nóng lòng muốn đi ra ngoài mong được hít thở một chút không khí trong lành.


- Bác thường ở đây vào giờ này chứ?


- Ngày nào vào giờ này tôi cũng có mặt ở đây.


- Ông già nói và nhét vội tờ giấy bạc vào túi.


- Nhờ bác chỉ giúp đường đến nhà Fred.


- Anh đi xe hơi à? Ông ta ở cách đây bảy tám cây số thôi à. – Rồi ông ta chỉ dẫn tỉ mỉ đường đi cho tôi. – Coi chừng lão Fred đấy, nghe chưa. Hắn là một kẻ thô tục.


Nhẩm lại những điều vừa biết được, tôi đi tới chỗ đỗ xe và phóng thẳng đến Ngõ Cá sấu. Lúc rẽ đường cái, tôi ngó thấy đồn cảnh sát. Tôi đắn đo không biết có nên vào trình diện hay không. Kinh nghiệm dạy tôi rằng cảnh sát đôi khi rất ghét cánh thám tử thọc mạch vào những chuyện địa phương họ. Nhưng tôi quyết định trước hết phải tới gặp Fred Jackson đã. Chả gì ông ta cũng đã trả tiền cho hãng để tìm đứa cháu nội của ông tạ Biết đâu ông ta chả muốn việc điều tra được giữ kín.


Levi đã báo trước với tôi rằng không có biển chỉ đường đến Ngõ Cá sấu. Ông ta dặn dò phải tìm một con đường nhỏ gần như đã bị các bụi cây che khuất. Sau khi cho xe chạy thật chậm mà không cản trở giao thông tôi đã tìm được chỗ rẽ và cho xe quặt vào một con đường đất ngoằn nghèo trông giống như một con rắn đang quằn quại dẫy chết. Hai bên đường là rừng rậm. Qua được ba cây số, con đường rộng hẳn ra: ở đây các xe tải có thể đợi đi xuống con đường nhỏ dẫn ra đường cái.


Tiếng kêu ỳ ộp của lũ ếch cho tôi biết rằng tôi đã đến gần nhà Jackson. Con đường hẹp dần và đột ngột ngoặt một góc vuông. Tôi cho xe dấn tới. Rồi tôi thấy một căn nhà gỗ, một cái giếng, một cái xô đặt trước cửa, một chiếc ghế băng đặt dưới cửa sổ đóng kín mít và một thùng tônô đựng ếch. Nghĩa là tôi đã tới nơi.


Tôi dừng xe, tắt máy và bấm còi.


Không một động tĩnh gì, ngoài tiếng ỳ ộp của lũ ếch.


Tôi đợi một lát rồi lại bấm còi.


Vẫn im lặng.


Tôi nghĩ chắc là Fred đi bắt ếch và xuống xe. Trời nóng và oi. Không một ngọn gió. Cây cối đứng im phăng phắc. Tiếng ỳ ộp không ngừng của lũ ếch tác động đến thần kinh của tôi. Những âm thanh của chúng phát ra có vẻ gì đó như là của con người. Tôi có cảm giác như nghe thấy tiếng hắng giọng của những ông già. Tôi châm thuốc và tiến hành xem xét ngôi nhà. Nó được xây dựng khá chắc chắn bằng gỗ thông. Xét theo bên ngoài, thì nó gồm một phòng khách và hai phòng nhỏ.


Tôi thấy cửa ra vào hé mở.


Tôi toát mồ hôi: hơi nóng, bản hợp ca của lũ ếch và vẻ cô liêu của ngôi nhà khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Nó tạo cho nơi này một bầu không khí bí ẩn rờn rợn.


Tôi tiến lại gần và gõ cửa. Không thấy động tĩnh gì. Sau khi gõ cửa lần thứ hai và chờ đợi một lát, tôi đẩy cửa. Tiếng ken két của những bản lề hen rỉ khiến tôi nhảy lùi lại.


Tôi căng mắt nhìn vào bóng tối đang ngự trị trong căn phòng lớn. Trong phòng đầy những đồ gỗ kềnh càng thường thấy ở những chỗ bán đấu giá mà ngày nay chẳng còn ai mua nữa. Tôi thấy Jackson ngồi lên một chiếc bàn lớn. Chắc chắn là Jackson vì ông già râu ria ngồi đó không có chân. Trước mặt ông ta là một đĩa thức ăn. Tôi không nhìn rõ trong đĩa có món gì vì ruồi đã bâu kín.


Tôi chợt nhìn thấy một con ếch bự đang ngồi đớp ruồi ở mép bàn. Nó giương cặp mắt xanh lóe sáng nhìn, rồi nhảy về phía tôi. Tôi vội cúi người xuống.


Con ếch chạm đất rồi biến mất.


- Ông Jackson…, - tôi vẫn đứng bên ngoài lên tiếng.


Ông già vẫn ngồi bất động.


Mắt tôi giờ đã quen với bóng tối. Tôi bước vào phòng.


- Ông Jackson…


Những con ruồi vo ve bay lên, rồi lại đậu xuống đĩa thức ăn.


Tôi nhìn thấy một dòng máu vẫn rỉ chảy trên mặt Fred và một lỗ đạn ở ngay giữa cái trán cáu bẩn của ông già.


Ông già đã chết, như đứa con trai của ông nhưng bị giết một cách sạch sẽ hơn.


Chương 2


Tôi dừng xe trước cửa đồn cảnh sát và nhìn xung quanh. Bài trí trong đồn đã quá quen thuộc với tôi. Đó là những cái mà người ta thường thấy trong hầu hết các phim truyền hình: một giá súng, những chiếc còng số tám treo trên móc, hai chiếc bàn văn phòng và ba buồng giam trống vắng.


Bầu không khí trễ nải và buồn tẻ bảng lảng trong đồn như một lớp bụi.


Cảnh sát trưởng Tim Mason, như tấm biển đặt trên bàn cho thấy, ngồi sau chiếc bàn văn phòng lớn, ngay trứơc mặt tôi như Đức Phật ngồi trên tòa sen. Tôi có cảm giác như chỉ có chiếc áo kaki cáu bẩn có gắn ngôi sao cảnh sát và chiếc quần mới giữ được lớp mỡ trên người ông ta không phì ra. Chưa bao giờ tôi gặp một người đàn ông nào béo đến thế. Hơn nữa, nhìn gương mặt đỏ au, với những mạch máu nổi rõ mồn một, đôi mắt vằn đỏ và mồ hôi rỏ ròng ròng trên mặt, tôi biết rằng chắc ông ta đã nốc không dưới một chai.


Ở một chiếc bàn khác là một thanh niên có đôi mắt xanh, trông cứ như anh em sinh đôi của Mickey Rooney vào hồi ngôi sao xinê này còn trẻ. Tấm biển đặt trên bàn anh ta cho biết rằng anh ta là phó cảnh sát Bill Anderson. Mason nhìn tôi bằng con mắt vô hồn. Người phó của ông ta đứng dậy. Anh ta nhỏ con nhưng cơ bắp xem ra săn chắc lắm.


- Tôi giúp gì được ông đây?- Anh ta hỏi với nụ cười còn hơi rụt rè.


Tôi ước anh ta chỉ khoảng hăm hai hăm ba tuổi. Tôi bước hẳn vào phòng và tiến đến gần Anderson.


- Tôi tới để báo cho các ông biết rằng Fred Jackson ở Ngõ Cá Sấu đã bị giết chết. - Tôi nói.


Anh chàng phó cảnh sát nhảy lùi lại cứ như tôi vừa thoi cho hắn một cú vào cằm.


- Anh là ai? - Mason lên tiếng.


Tôi lấy ví, rút thẻ, tiến lại và đặt trên bàn ông ta.


Ông ta cầm chiếc thẻ của tôi bằng bàn tay run run, và phải khá lâu mới đọc xong.


- Mẹ kiếp, lại bốc mùi ruồi nhặng rồi đây. - Ông ta nói với vẻ bực bội. - Tôi là chúa ghét bọn thám tử các anh. Anh làm gì ở vùng chúng tôi?


- Tôi tới để báo cho các ông biết Fred Jackson, ông già nuôi ếch ấy, đã bị giết rồi. - tôi nói thật rành rọt.


Ông ta lại đọc lại những điều ghi trên thẻ của tôi. Rõ ràng là những điều tôi nói chưa lọt đựơc vào bộ não của ông ta.


- Tôi là chúa ghét bọn ruồi nhặng các anh. - Ông ta nhắc lại. - Tôi không muốn có các anh ở đây, rõ chưa. Hãy xéo ngay và đừng bao giờ đặt chân vào cái phòng này nữa, hiểu chưa?


- Tôi báo cho ông biết rằng Fred Jackson đã bị giết rồi. - Tôi vẫn kiên trì cao giọng nói.


Ông ta đứng dậy như một con voi, rồi ì ạch đi vòng qua bàn.


- Bill, cậu hãy lo thằng chó này, - Ông ta nói, - Hãy tống khứ nó đi và đợi tôi một lát.


Tôi cầm lấy thẻ và đưa đến đặt trên bàn của Anderson.


- Lúc nào các anh cũng làm việc như thế này à? - tôi hỏi.


Anderson đu đưa chân, đọc thẻ của tôi rồi nhìn tôi lắc đầu.


- Anh đến thật không đúng lúc, anh Wallace ạ. Bây giờ là lúc sếp phải uống thuốc. Chưa uống xong thì ông ấy chẳng hiểu gì hết.


- Thế không có chai nào ở đây hay sao?


- Ông ấy không thích uống một mình. Về chuyện anh nói, anh đã làm báo cáo chưa?


Khó khăn lắm tôi mới giữ được kiên nhẫn. Tôi tự nhủ: mình đang có việc với lũ chó chết, lại ở nơi khỉ ho cò gáy như thế này.


- Fred Jackson, ông già nuôi ếch ấy, đã bị giết rồi.


Anderson nhảy bật dậy.


- Đúng là tôi nghĩ có nghe ông nói như vậy, nhưng tôi không tin. Anh có chắc không?


- Ông ấy chết rồi. Một viên đạn găm vào đầu. Không có vũ khí ở cạnh ông tạ Nghĩa là ông ấy đã bị ai đó bắn chết.- Tôi vẫn kiên nhẫn giải thích.


- Chính mắt anh đã thấy à?


- Tôi vừa mới ở nhà ông tạ Anh cần phải tới ngay và chở ông ta tới nhà xác. Nhà ông ta ruồi nhặng kéo đến khiếp lắm.


Anderson mặt tái mét và lại ngồi xuống.


- Bị giết! Đây là lần đầu tiên có tội phạm ở đây,- anh ta lẩm bẩm.


- Thì bây giờ có rồi đấy. Nó sẽ làm cho các anh phải thay đổi.


- Lạy Chúa! Tội phạm!


Tôi bắt đầu cảm thấy thương anh tạ Anh ta còn quá trẻ để làm phó cảnh sát. Còn quá ít kinh nghiệm, anh ta chỉ đủ sức giả quyết những vụ trộm cắp, đậu xe chỗ cấm, say rượu, hoặc đôi khi cùng lắm là những vụ cưỡng dâm. Còn một tội phạm thì quả là vượt quá khả năng của anh ta.


- Tôi đề nghị anh trước hết hãy gọi điện cho cảnh sát bang,- tôi nói bằng mội giọng đã dịu đị- Họ sẽ lo hết cho các anh.


Anderson trợn mắt.


- Không được! Mason không bao giờ chịu làm như thế đâu. Ông ấy là cảnh sát trưởng ở đây đã hai mươi năm và không bao giờ gọi cảnh sát bang hết.


- Hoặc là ngay bây giờ hoặc là không bao giờ. Dầu sao anh cũng phải gọi, mà phải gọi ngay lập tức.


Anderson dùng mu bàn tay gãi cằm. Tôi có cảm tưởng như nghe thấy cả tiếng lạo xạo trong bộ Óc đang vật vã suy nghĩ của anh ta và càng cảm thấy thương anh ta hơn. Dẫu sao anh ta cũng nghiêm chỉnh hơn gã sâu rượu kia. Tôi cũng biết rõ rằng nếu cảnh sát bang tới đây và thấy Mason thì cái chức cảnh sát trưởng của y bay là cái chắc.


- Mason sẽ về hưu vào cuối năm nay,- Anderson nói như chính mình.- Ông ấy là một tay cừ khôi, nhưng rượu đã làm hỏng ông ấy. Ở đây ai cũng mến ông ấy. Nhưng nếu cảnh sát bang thấy…


Lại một lần nữa anh ta gãi cằm và nhìn tôi với vẻ tuyệt vọng.


- Tôi đã báo cho các anh rằng ở đây xảy ra một tội phạm,- tôi nói,- Còn các anh muốn làm gì thì tùy.


Anderson lại cầm xem thẻ hành nghề của tôi.


- Anh đang làm việc cho đại tá Parnell à?


- Điều đó đã ghi rõ trên thẻ rồi còn gì.


- Một hãng cực kỳ đấy.


- Đúng vậy.


- Người ta nói với tôi rằng hãng đang kiếm một điều tra viên. Tôi đã viết đơn. (Anh ta lại gãi cằm). Nhưng không may là họ đã kiếm được ai đó rồi. Tôi sẵn sàng trả giá đắt để được làm việc trong hãng của anh. Anh có cho rằng còn có cơ hội không?


- Còn chứ. Tất cả đều phụ thuộc vào nhu cầu công việc. Mà đại tá chỉ tuyển những điều tra viên năng động thôi.


- Lương bổng có khá không, hầy?


- Khá.


- Thế thì thật tuyệt vời nếu tôi được làm việc cho đại tá Parnell. (Anh ta lại gãi cằm và không nhìn tôi. Chắc là đang theo đuổi những ước mơ đầy tham vọng). Tôi đã ngán đến tận cổ cái làng khỉ ho cò gáy này lắm rồi.


- Rồi nó sẽ trở thành nổi tiếng,- tôi nói.- Một tội phạm bao giờ cũng xuất hiện với hàng tít lớn trên trang nhất.


Anderson nhảy phắt dậy, dường như anh ta quên biến là có một tội phạm mà anh ta cần phải giải quyết.


- Đúng vậy, thế mà tôi không nghĩ ra. Lạy Chúa, tôi phải làm gì bây giờ nhỉ?


- Phải gọi điện ngay cho cảnh sát bang trước khi Jackson bị giòi bọ làm cho trương ra.


Anderson tái mặt.


- Không thể được. (Anh ta nhìn tôi vẻ cầu khẩn). Ở địa vị tôi anh sẽ làm gì?


- Nếu tôi không thể gọi cảnh sát bang, tôi sẽ cho gọi xe cấp cứu và một bác sĩ tới đó để xem điều gì đã xảy rạ- Tôi nói.- Mà rốt cuộc anh có tin lời tôi không?


Anh ta mừng rỡ trông thấy.


- Đúng là tôi phải làm như vậy thật,- anh ta nói và với tay nhấc điện thoại.


Trong khi anh ta nói chuyện, tôi đi ra cửa đứng nhìn ra đường phố huyên náo. Tôi có cảm tưởng cứ như mình bị đẩy vào một cuốn phim hoạt hình, nhưng rồi suy đi nghĩ lại tôi thấy rằng giúp Anderson, tôi có thể sẽ nhận được những thông tin lý thú cho bản báo cáo trình đại tá của tôi.


Sau khi đặt máy, Anderson ra cửa đứng với tôi.


- Xe cấp cứu sẽ tới cùng bác sĩ Steed. Ông ấy là bác sĩ pháp y của chúng tôi. (Anh ta nhìn tôi vẻ lúng túng). Ông ấy già rồi, nhưng theo cảnh sát trưởng, thì đó là người quan trọng nhất ở làng này đấy. Anh chắc là thạo về những vụ hình sự lắm nhỉ?


Anh ta rõ ràng tính rằng tôi sẽ trả lời khẳng định và tôi đã không làm anh ta phải thất vọng.


- Chúng tôi làm đủ thứ: tội phạm, tống tiền, bắt cóc… thôi thì chả thiếu thứ gì. Tôi cũng được tham gia nhiều.


Anh ta tỏ vẻ thỏa mãn lắm.


- Tôi rất muốn biết anh có chấp nhận tới đó với chúng tôi không? Anh có thể phát hiện những chi tiết mà chúng tôi có thể bỏ qua.


- Không được đâu. Tôi chắc là ông Mason sẽ không đồng ý. Ông ấy vốn ghét cay ghét đắng cánh thám tử chúng tôi mà. Tôi không muốn kiếm chuyện với ông ấy.


- Anh đừng lọ Ngay khi có tý cay, ông ấy sẽ là một con người khác. Tôi không nói đùa đâu. Mọi chuyện là do anh tới không đúng lúc đấy thôi. Ông ấy sẽ rất mừng nếu được anh giúp đỡ.


- Vậy trước hết, anh hãy đi hỏi ông ấy xem đã. Ông ấy phải tẩy trần trong bao lâu?


- Ông ấy không thể quay về đây trước hai giờ, nhưng khỏi cần phải hỏi ông tạ Khi gặp lại ông ta anh sẽ không nhận ra đâu. Khi uống xong ly uytski Êcốt thường lệ, Mason sẽ là người dễ thương nhất làng này đấy.


Đúng lúc đó chiếc xe cấp cứu cũ rích tới đỗ trước cửa. Có hai người da đen mặc áo blu trắng và một ông già dễ ngoài tám mươi râu tóc đã bạc trắng. Ông già khập khiễng xuống xe và nhìn chúng tôi. Gương mặt ông nhăn nheo như một quả táo héo.


- Đây là bác sĩ Steed,- Anderson giới thiệu với tôi và bước xuống chào ông già.


Tôi đứng đợi để Anderson giải thích mọi chuyện với ông già. Steed nhìn tôi với đôi mắt còn sáng và rất tinh anh.


Tôi bước xuống và bắt bàn tay ông đã chìa sẵn.


- Tội nghiệp ông già Fred Jackson!- Ông nói bằng một giọng nhỏ và rè. Thật kinh khủng! Bị giết hả? Bill đã nói với tôi về anh, anh bạn trẻ ạ. Chúng tôi sẽ rất mừng nếu được anh giúp đỡ. Thường thì chúng tôi phải gọi cảnh sát bang, nhưng chúng tôi muốn tự giải quyết những vụ việc trong làng không để cho người ngoài thọc mũi vào. Chúng tôi sẽ cần đến kinh nghiệm của anh.


- Tôi sẵn sàng hợp tác, nhưng tôi nghĩ nên báo cho cảnh sát bang. Đây là một vụ giết người cơ mà.


Ông già nhìn tôi cười tinh quái.


- Người quyết định chuyện này là tôi, anh bạn trẻ ạ. Ông già Fred không còn mục tiêu sống nữa. Có thể vì thế ông ấy đã quyết định tự kết liễu đời mình.


- Nhưng không có vũ khí ở đó.


- Để rồi chúng ta xem!


Steed khập khiễng đi tới xe cấp cứu và leo lên.


Tất cả dân Searle có mặt trên đường phố đều đứng há hốc mồm nhìn chúng tôi. Thấy xe cấp cứu đậu trước đồn cảnh sát, lại có cả bác sĩ pháp y và một người lạ mặt nữa là điều mới lạ đối với họ.


- Chúng ta lên xe thôi,- Anderson đề nghị.


Tôi cùng với anh ta leo lên chiếc Chevrolet cũ rích và theo sau chiếc xe cấp cứu rẽ lên đường cái lớn.


- Jackson còn họ hàng thân thích không?- Tôi hỏi.


- Có một thằng cháu nội, nhưng không ai biết hiện nó ở đâu. Theo như tôi biết thì không còn ai khác.


- Jackson có báo cho các anh biết về chuyện thằng bé mất tích không?


- Có. Vào khoảng hai tháng trước. Ông ta nhắn qua viên bưu tá rằng ông muốn gặp Mason. Cảnh sát trưởng có lên gặp ông ta, nhưng khi quay về nói với tôi rằng cái lão ấy chỉ gây những chuyện không đâu. Thằng bé chắc đã ngán sống với Fred nên đã bỏ đi, thế thôi. Mason còn nói rằng chuyện đó không đáng làm bận tâm cảnh sát bang. Họ đã có khối kẻ mất tích cần phải tìm kiếm rồi.


- Anh nói rằng Fred báo cho cảnh sát qua người bưu tá. Vậy ra Fred vẫn nhận được thư từ à?


- Chắc là như vậy. Chính xác thì tôi không biết. (Anh quay sang nhìn tôi). Anh nghĩ chuyện đó là quan trọng ư? Ý tôi muốn nói là việc Fred nhận thư có thể cho một đầu mối gì không?


- Có thể. Tôi đơn giản chỉ lấy làm lạ là một ông già sống biệt lập như vậy mà vẫn nhận được thư từ.


- Để rồi tôi hỏi Josh, viên bưu tá của chúng tôi xem.


- Đúng, thư thả rồi anh cứ hỏi xem. Chẳng đi đâu mà vội.


Lúc này chúng tôi đang cho xe chạy theo con đường hẹp dẫn tới nhà Fred. Chiếc xe cấp cứu làm tung bụi mù mịt và Anderson lại bám quá sát.


Khi xe cấp cứu dừng lại trước ngôi nhà, hai người da đen lấy xuống một chiếc cáng rồi mang vào nhà. Tôi cũng xuống xe và tới cửa vào ngôi nhà.


Bác sĩ Steed đã đang đứng trước thi thể của Fred Jackson. Ruồi bay vo ve xung quanh chiếc mũ của ông. Mùi tanh nồng nặc khiến người tôi nôn nao.


- Hãy nhìn đi, anh bạn trẻ,- Ông ta nói và chỉ chiếc gói nhỏ ở cạnh chân ghế mà Fred đang ngồi. Chắc là anh đã bỏ sót chi tiết này.


Trên đất, và bị chiếc ghế che khuất một phần là một khẩu súng ngắn, kiểu Beretta cỡ 22.


- Hoàn toàn đúng như tôi nghĩ,- Steed nói tiếp với vẻ thỏa mãn hiện rõ trên khuôn mặt già nuạ- Ông già tội nghiệp đã tự sát. Một vụ giết người ư? (Ông ta cười mỉa). Anh bạn trẻ ạ, anh cần phải quan sát tinh tường hơn. Đây đúng là một vụ tự sát. Điều này hiển nhiên như chiếc mũi ở trên mặt tôi vậy.


Khi được nghe từ miệng một công dân có uy tín nhất Searle này, người mà tôi đã chia sẻ ý kiến cho rằng đây có thể là một vụ giết người, nói rằng tôi chỉ là một kẻ quan sát hời hợt, chẳng có nghiệp vụ gì, tôi chỉ còn biết đứng yên không đáp. Nhưng trong thâm tâm tôi biết chắc chắn rằng khẩu súng không hề có ở đó khi tôi ra khỏi ngôi nhà để đi báo cảnh sát. Tôi hoàn toàn tin chắc như vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét