Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012

Những thế hệ doanh nhân Việt Nam kể từ thời... đồ đá

Những doanh nhân xưa đáng để chúng ta ghi nhớ và vinh tôn, bởi chính họ đã khơi nguồn cho dòng chảy vô tận của doanh nhân và kinh tế đất nước.
 Doanh nhân Việt thời... đồ đá
Những phát hiện khảo cổ học thời gian qua cho thấy, các công trường chế tác đồ đá đã xuất hiện vào giai đoạn hậu kỳ đồ đá mới ở nước ta (khoảng 6.0003.000 năm trước), như Hồng Đà (Phú Thọ), Bãi Tự (Bắc Ninh), Tràng Kênh (Hải Phòng), Núi Đọ (Thanh Hoá), Rú Dầu (Hà Tĩnh), mỗi nơi chuyên chế tác những công cụ truyền thống mang tính khu vực.
Với những công trường lao động lớn như vậy, ngoài lao động của rất nhiều nhân công, chắc chắn có sự điều hành, chỉ huy và tổ chức của những ông chủ, chính đó là vai trò của những chủ doanh nghiệp, tức là những doanh nhân, như cách gọi ngày này.
Như vậy, những doanh nhân cổ xưa không lưu lại danh xưng, song nhờ những sản phẩm mà họ để lại, cho phép chúng ta ghi nhớ và vinh tôn họ, và chính họ đã khơi nguồn cho dòng chảy vô tận doanh nhân và đất nước.
Dân cư trong các làng và các dòng họ có nghề rèn sắt cổ truyền trong vùng Nghệ Tĩnh vẫn còn lưu truyền về ông Khổng Lồ, đã dạy nghề rèn sắt cho dân từ thưở khai thiên lập địa. Dân các làng rèn sắt thờ làm thần tổ khai sáng nghề rèn để ghi nhớ công ơn ông. Như vậy ông Khổng Lồ đạt tiêu chuẩn để tôn vinh là doanh nhân thuộc nghề rèn sắt, như cách tôn vinh của chúng ta ngày nay.
Hay dân các làng dệt truyền thống vùng châu thổ sông Hồng tôn thờ Bà Hoàng Phủ Thiễu Hoa làm thần tổ nghề, bởi bà có công dạy truyền nghề dệt cho dân, mà trong truyền thuyết ghi rất rõ bà là công chúa con của vua Hùng, bắt đầu từ bà mà nghề dệt được mở mang phát triển truyền mãi cho đến tận ngày nay.
Lang Liêu nghĩ ra cách làm bánh chưng – bánh dày, Mai An Tiêm phát hiện ra giống dưa hấu... cũng là những doanh nhân được lưu truyền trong lịch sử, từ thời cổ như vừa dẫn là những ví dụ ít ỏi và rất điển hình, mà lâu nay không ai nói họ là doanh nhân.
Doanh nhân thời trung đại
Đây là thời kỳ mà những doanh nhân Việt không được chú ý nhiều khi đất nước trải qua những năm tháng phức tạp trong lịch sử. Tuy nhiên, vẫn có thể nhớ đến những gương mặt nổi bật.
"Doanh nhân đồ nho" Phùng Khắc Khoan. Sử sách đánh giá rằng, Phùng Khắc Khoan "là một nhà kinh bang tế thế" vĩ đại. Tên tuổi và sự nghiệp của ông không những gắn liền với những sự kiện chính trị, mà còn gắn liền với những thành tựu kinh tế mang tính thời đại, của đất nước ta thế kỷ XVI.

Tổ sư nghề dệt the lụa ở Xứ Đoài (Sơn Tây) được phong tặng cho Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Ông đỗ Tiến sĩ, làm đến Thượng thư, từng đi Sứ Trung Quốc. Chính ông đã học được nghề dệt the lụa và có công đem cây ngô và vừng về quê dạy cho dân làng. Hàng dệt mang thương hiệu Bùng nổi tiếng một thời.

Theo cuốn “Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan” của Bùi Duy Tân - Ngọc Liễn, Phùng Khắc Khoan bày cho dân làng cách làm cày, làm bừa theo lối mới tốt hơn.

Theo lời truyền tụng trong nhân dân thì Phùng Khắc Khoan chính là ông tổ nghề làm "lượt Bùng" - một sản phẩm nổi tiếng của Xứ Đoài. Khắp nơi trong nước, hồi ấy đâu đâu người ta cũng dùng "lượt Bùng" để may áo và nhất là làm khăn đội đầu.

Phùng Khắc Khoan là một trí thức được nhào nặn từ Nho giáo, một nền giáo dục lấy khoa cử, từ chương làm trọng; nghĩa là một nền giáo dục đào tạo ra những con người sách vở, kinh viện, xa rời các vấn đề sản xuất kinh tế, kỹ thuật. Song, con người Phùng Khắc Khoan lại là con người của hành động.

Phùng Khắc Khoan vượt lên trên cái mẫu "dài lưng tốn vải", biểu tượng của nhân cách kẻ sĩ trong nền giáo dục "cửa Khổng sân Trình" phong kiến xưa, để trở thành biểu tượng của một giá trị thực tế, gắn liền với "bát cơm, manh áo" của nhân dân. Và như thời nay chúng ta vẫn gọi những con người mang lại giá trị ấy - ông là một doanh nhân.

Vài gương mặt doanh nhân Việt thời... chạy Tây
Nhà công nghiệp Trương Văn Bền. Trương Văn Bền (1883 - 1956), quê Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh), xuất thân từ một gia đình thủ công, năm 1918 ông đã lập nhà máy nấu dầu dừa, sản xuất xà phòng, glycerin hàng ngàn tấn mỗi tháng (đây là các nhà máy sản xuất xà phòng và kỹ nghệ dầu lớn nhất Đông Dương thời đó).

Ông cũng hợp tác trong việc chích lấy nhựa thông và phục hồi những khu rừng quanh Đà Lạt, sản xuất mỗi năm khoảng 30 tấn dầu thông cùng hàng trăm tấn tùng hương. Ông còn là người Việt đầu tiên lập ra hai nhà máy xay lúa công suất trên 100 tấn gạo mỗi ngày và Tổng Giám đốc Công ty Trồng lúa Tháp Mười mà có một sở điền rộng tới 10.000 ha.
Từ năm 1918 đến 1945, ông sáng lập, làm chủ tịch hoặc thành viên chính của nhiều hiệp hội kinh tế, tài chính, lúa gạo, công nghệ hoặc thành viên chính của nhiều hiệp hội kinh tế, thương mại, tài chính, lúa gạo, công nghệ, bến cảng lớn ở Nam Kỳ và Đông Dương. Là một đại gia công nghiệp, ông góp tâm sức rất lớn cho việc phát triển nền thương mại, kỹ nghệ và nông nghiệp miền Nam nửa đầu thể kỷ XX.
"Cậu ký" đường thủy Bạch Thái Bưởi. “Ông vua đường thủy” Bạch Thái Bưởi (1874-1932) được coi là một doanh nhân kiệt xuất của đất Việt, biết khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng, có ý thức dân tộc.
Nhung the he doanh nhan Viet Nam ke tu thoi... do da
“Ông vua đường thủy” Bạch Thái Bưởi.
Bạch Thái Bưởi sinh trong một gia đình nông dân nghèo tại làng An Phúc, tỉnh Hà Đông. Cha ông mất sớm, nên ông phải giúp mẹ sinh sống bằng nghề bán hàng rong. Lúc ấy có một nhà phú hào họ Bạch thấy ông thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó, ông có cơ hội ăn học. Học xong ông xin làm chân thư ký cho một hãng buôn người Pháp ở phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó sang làm với một hãng thầu công chánh. Chính ở những nơi này, cậu ký Bưởi đã học được cách tổ chức, quản lý sản xuất và tiếp xúc với thiết bị, máy móc.
Là một thanh niên không chịu an phận, ông quyết tâm đi vào con đường kinh doanh, bắt tay xây dựng cơ nghiệp riêng. Khi người Pháp xúc tiến việc mở đường sắt nối liền Bắc-Nam, Bạch Thái Bưởi dốc hết vốn liếng dành dụm bấy lâu hùn với một người Pháp vào việc lãnh thầu cung cấp tà-vẹt cho công trình này. Suốt 3 năm ròng, ông lùng khắp rừng sâu, lũng thấp tìm cho được gỗ thật bền, thật tốt để đáp ứng yêu cầu, gây uy tín với người Pháp.
Sau đó, ông xin phép mở dịch vụ cầm đồ ở Nam Định. Ông phải đem tất cả tài tổ chức, kinh nghiệm ra cạnh tranh với doanh nhân người Hoa trong lĩnh vực này. Nhân viên toàn người Việt, lại ăn nói, cư xử nhã nhặn, tiền chịu lời phải chăng, cho nên dù bị nhà cầm quyền làm khó dễ đủ điều, thương khách người Hoa chờ ông vỡ nợ…, nhưng khách hàng của ông vẫn ngày một đông.
Thừa thắng, ông dấn thân vào ngành in ấn vốn là nghề hoàn toàn mới lạ đối với ông, nhưng khi thấy xã hội có nhu cầu, ông vẫn bỏ tiền ra mở “Công ty in và Xuất bản Bạch Thái Bưởi”, xuất bản tờ “Khai hóa nhật báo” nhằm cổ động phong trào thực nghiệp ở nước ta.

Năm 1909, Bạch Thái Bưởi quyết tâm lao vào một lĩnh vực kinh doanh mới: vận tải đường sông. Chính từ đây, ông vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh, trở thành “Vua sông biển Đông Dương” và là một trong “tứ đại gia” lừng lẫy thời đó.

Vào nghề sông nước, để đương đầu với các đối thủ người Pháp, Hoa có thế lực mạnh, lại giàu kinh nghiệm hơn nhiều lần, Bạch Thái Bưởi đã sử dụng thế mạnh tinh thần: vận động, kêu gọi mọi người ủng hộ công cuộc kinh doanh của người Việt, “ta về ta tắm ao ta”.

Cuối cùng nhờ vậy, đội tàu của ông không những vượt qua sóng gió mà còn lớn mạnh, được bổ sung bằng những đội tàu của công ty Pháp, Hoa bị phá sản như: Marty d’Abbadie, Desch Wanden… Năm 1915, ông còn mua lại xưởng đóng và sửa chữa tàu của R.Marty.
Sau bảy năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở nhiều nơi. Năm 1916, ông chuyển trụ sở từ Nam Định vào Hải Phòng rồi bắt đầu mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các vùng lân cận như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật, Singapore…
Nhưng đỉnh cao phát triển của công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930, khi ấy công ty có trên 40 con tàu, với số lượng nhân viên lên tới 2.500 người làm việc trên các đội tàu, xưởng đóng tàu. Văn phòng và chi nhánh của công ty có ở các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Tuyên Quang, Việt Trì, Bến Thủy, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Sài Gòn…

Dường như với Bạch Thái Bưởi : “Chiến thắng không hiểm nguy thì chiến thắng không vẻ vang”. Cho nên khi đã thắng kẻ có tiền bạc, ông lại muốn ăn thua với kẻ có nhiều quyền thế. Các mỏ than lúc bấy giờ đều nằm trọn trong tay người Pháp, vậy mà ông vẫn liều mạng xông vào trận địa này và không bao lâu, than của ông chất thành núi (đến năm 1945 mới bán hết), ông trở thành “Vua mỏ nước Việt”.

Với đầu óc thực tế, tầm mắt nhìn xa, ông còn dự định tạo dựng nhiều công trình như: xây một nhà máy xay gạo ở Nam Định với những thiết bị tân tiến mua tận Hambourg (Đức), chương trình đặt ống cống, xây nhà máy nước, dựng nhà máy điện cho thành phố Nam Định và cả việc đặt đường sắt Nam Định – Hải Phòng, nhưng tiếc là vì hoàn cảnh, vì chiến tranh, nên ông không thực hiện được.

"Ông tắc kè" Gecko. Đó là ông Nguyễn Sơn Hà, đại biểu nổi tiếng đến từ Hải Phòng tại Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hãng sơn Gecko với logo đầy ấn tượng: một chú tắc kè đang uốn cong đuôi và bốn chân bám chắc lấy thân cây cổ thụ xù xì.

Nhung the he doanh nhan Viet Nam ke tu thoi... do da
Hãng sơn Gecko với logo đầy ấn tượng: một chú tắc kè đang uốn cong đuôi và bốn chân bám chắc lấy thân cây cổ thụ xù xì.
Không chỉ ở Hải Phòng mà ở cửa ga Nam Định, và giữa quảng trường ngã sáu chợ Hàng Da, phố Đường Thành (Hà Nội), ai ai đi qua hay vòng lại cũng phải chú ý ngắm nhìn lên “chú tắc kè” to lớn, da sần sùi mà bóng nhẫy mầu sơn xanh lá cây: “Đấy, cửa hàng chính của hãng sơn Gecko đấy”.

Cũng như các ông Bạch Thái Bưởi, ông Ngô Tử Hạ hay ông Nguyễn Văn Vĩnh, ông Nguyễn Sơn Hà xuất thân nghèo khổ. Tám tuổi bỏ làng ra tỉnh kiếm sống bằng mọi nghề vất vả nhất. Rồi cậu bé kiếm được đồng vốn dắt lưng, và nhất là có con mắt tinh đời, có cái đầu biết nghĩ, cậu xin được làm một chân phụ thợ nề; từ chân thợ nề quét vôi trát vữa, cậu học lỏm được nghề sơn cửa, sớm nhận biết được bí quyết pha chế các loại sơn thế nào vừa mỏng lớp, lại vừa bền màu.

Rồi cậu chuyển ngay sang nghề mới: pha chế sơn, bán lẻ cho các tốp thợ mộc, thợ nề quanh năm suốt tháng có mặt ở các phố phường từ Lạch Tray lên Chợ Sắt đang nườm nượp mở cửa hàng bán buôn, bán lẻ.

Chẳng mấy chốc, các cửa hiệu và cả cửa kính, cửa chớp chạy dài Cầu Đất, Hàng Kênh cho đến Phố Khách, hai bờ Sông Lấp, chỗ nào cũng thấy thợ sơn ưa dùng và chọn mua hàng của “lò Sơn Hà”. Thế là đã đến lúc, cậu hùn vốn chung với mấy người làng, mở xưởng nấu và pha chế sơn. Ba năm sau, hãng sơn lớn do ông làm chủ đã hình thành và ngày càng khẳng định được thương hiệu.

Từ lâu, Nguyễn Sơn Hà ghét Tây, ghét Nhật. Nhưng nghĩ mình sức mỏng, thân cô thế yếu, thôi thì cứ vo tròn, lo phận mình chắt chiu, chỉ miễn sao “họ” để cho mình yên là ổn. Còn con trai sức dài vai rộng, cho nó đi theo Việt Minh tung tẩy với anh với em, cho xứng đáng là tu mi nam tử, trai thời loạn biết tung hoành cho phải đạo với nước non.

Cho đến hôm ông được nghe tin “Việt Minh đã vào Hà Nội rồi”, thì anh con trai toe toét cười, ôm lấy lưng ông: “Cha ơi, cách mạng về rồi! Anh em trên Đệ Tứ chiến khu đã đóng đầy bên Thuỷ Nguyên rồi. Cha cho đóng cửa nhà xưởng để anh em thợ thuyền kéo đi biểu tình đón quân Cách mạng về giành chính quyền thành phố đi”.

Ông lập tức làm theo ý con trai, và ngày hôm sau, 23 tháng 8 năm 1945, cùng với toàn thể anh chị em trong hãng sơn, hai cha con ông cùng đi trong hàng ngũ trùng điệp mười vạn con người thành phố Cảng giành chính quyền, đồng thời chào mừng Uỷ ban nhân dân lâm thời của thành phố.

Và chỉ năm ngày sau, ông nghe tin dã thành lập xong Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, mà trong danh sách các bộ trưởng, ông đã quen biết Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Thanh niên Dương Đức Hiền và thân thiết nhất là Bộ trưởng Kinh tế quốc dân Nguyễn Mạnh Hà.

Cuối năm 1945, ông Nguyễn Sơn Hà được nhân dân Hải Phòng bầu làm đại biểu Quốc hội. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông Nguyễn Sơn Hà rất sung sướng tham dự phiên họp đầu tiên của Quốc hội khoá I, và rất tự hào cùng các đại biểu khác nhất trí thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Tháng 11 năm 1946, ông Nguyễn Sơn Hà tham dự kỳ họp thứ hai của Quốc hội, nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo về chuyến đi làm thượng khách của Chính phủ Pháp, và sau đó, cùng toàn thể đại biểu Quốc hội thảo luận từng điều rồi thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Ông chủ nhà in đầu tiên với tấm lòng yêu nước ghét Tây. Ông Ngô Tử Hạ (1882-1973), quê ở Qui Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.

Năm 25 tuổi, ông lập nhà in riêng trở thành tư sản dân tộc có 2 nhà in ở Hà Nội và ở Huế. Ngô Tử Hạ còn tham gia làm báo: ông là chủ nhiệm báo Đông Thanh và tham gia trị sự báo Nam Phong.

Ngô Tử Hạ rất căm ghét thực dân Pháp xâm lược và thường giao hảo với những chí sĩ có lòng yêu nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Nguyễn Văn Tố, cụ Bùi Bằng Đoàn v.v...

Cách mạng tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu làm đại biểu Quốc hội và được Quốc hội bầu là ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I nước VNDCCH và là đại biểu cao tuổi nhất. Nước Việt Nam non trẻ lúc đó gặp muôn vàn khó khăn về thù trong giặc ngoài.

Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan.
Để có được vinh dự lớn lao như trên, nhà tư sản dân tộc Ngô Tử Hạ đã phải trải qua một quá trình nỗ lực không mệt mỏi với ý chí kiên định đáng nể phục để tự mình vượt lên khỏi thân phận đói nghèo, đồng thời đóng góp vào việc đặt những viên gạch nền móng xây dựng công nghệ, kinh tế Việt Nam, tỏ rõ ý chí tự lực tự cường cùng với các nhà tư sản dân tộc khác như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà.

Anh trai quê Ngô Tử Hạ bắt đầu sự nghiệp với việc nhận làm cho một cơ sở in vỏ bao thẻ hương. Công việc nặng nhọc, vất vả mà đồng lương chẳng được là bao song Ngô Tử Hạ vẫn kiên nhẫn ở lại làm.

Sau vài năm chịu thương, chịu khó, dè sẻn chi tiêu, Ngô Tử Hạ đã dành dụm đủ tiền mua được một chiếc máy in thẻ hương. Anh bèn thôi làm thuê, mà tự mình in thuê vỏ bao thẻ hương. Cứ cần mẫn, dè sẻn thế, rồi cha con Ngô Tử Hạ cũng có tiền mua thêm một vài chiếc máy gỗ in vỏ bao hương nữa, mượn thêm thợ làm.

Từ bỏ lối làm nghề cò con với những chiếc máy in làm bằng gỗ đơn giản chỉ in được vỏ bao thẻ hương, Ngô Tử Hạ quyết hiện đại hoá dần việc kinh doanh nghề in của mình. Ông mua những chiếc máy in được xem là hiện đại thời bấy giờ, chưa đủ tiền mua nhiều máy, thì ban đầu mua ít, tích luỹ vốn được kha khá nhờ quản lý tốt và tiết kiệm trong chi phí kinh doanh cũng như trong sự tiêu dùng hàng ngày của gia đình, ông lại bỏ tiền ra mua thêm máy in mới.

Cơ sở đặt máy, lập nhà in, trước ông đi thuê, sau ông mua hẳn một khu đất rộng bên đường phố Lý Quốc Sư, gần đền thờ Lý Triều Quốc sư, lại cũng gần Nhà thờ lớn Hà Nội để xây dựng nhà in. Vị trí nhà in đắc địa, máy in nhiều và hiện đại, thợ in đông, giải quyết chóng vánh, chất lượng các hợp đồng in, uy tín của nhà in Ngô Tử Hạ ngày một được khẳng định.
Nhung the he doanh nhan Viet Nam ke tu thoi... do da
Nhà in của ông Hạ bên đường phố Lý Quốc Sư, Hà Nội.
Xuất thân trong cảnh nghèo khó, ông đã quen với ý chí tự lập. Ông lại ghét Tây, không ưa luôn các cố Tây, tuy là người công giáo, lại sống cạnh Nhà thờ lớn Hà Nội, nhưng ông không giao tiếp, gần gũi với các cố Tây, chỉ đi lễ nhà thờ như mọi tín hữu công giáo, rồi về luôn nhà mình.

Theo các bậc cao niên đã từng làm việc trong nhà in Ngô Tử Hạ kể lại thì Ngô Tử Hạ là một ông chủ nhà in giản dị trong sinh hoạt, nhưng rất nghiêm khắc trong công việc. Đó cũng là ông chủ nhà in ngoài thời gian giao tiếp tìm mối hàng với khách hàng ra, thì ngày ngày luôn luôn xuống xưởng in hay làm việc với bộ phận thư ký quản lý, tiếp thị của nhà in.

Ông nghiêm khắc trong công việc với cả con cháu trong nhà, con ông, cháu ông, ai có thể làm được việc nào ông mới giao cho việc ấy, hưởng lương như mọi người khác theo đúng công việc được giao, làm sai, làm hỏng cũng bị khiển trách hay phạt trừ lương như thường.

Với bộ phận thư ký, ông bàn bạc, hỏi han, lắng nghe ý kiến mọi người, cùng họ cân nhắc từng mối hàng, hợp đồng rồi dành cho mình quyền quyết định trên cơ sở làm chắc, ăn chắc.

Sự xem xét kỹ càng, quyết định thận trọng ấy, cộng với việc đặt tiêu chuẩn kỹ thuật lên hàng đầu, đã khiến cho nhà in Ngô Tử Hạ kinh doanh chắc chắn, hầu như chỉ có lãi, gây được uy tín với khách hàng, họ tìm đến đặt in ở nhà in ông Ngô Tử Hạ ngày một nhiều thêm, đủ cả khách hàng trong nước, lẫn khách hàng từ nước ngoài, nhất là nước Pháp. Nhà in Ngô Tử Hạ cứ thế lớn mạnh lên.

...

Nếu Lương Văn Can vạch ra 10 nguyên nhân làm các DN Việt Nam không phát triển được, thì chính những doanh nhân như trên đã lấp đầy những khiếm khuyết đó bằng những tôn chỉ nghiêm túc trên thương trường: thương phẩm, thương hội, tín thực, kiên tâm, nghị lực, trọng nghề, thương học, giao thiệp, tiết kiệm và coi trọng hàng nội hóa.

Chúng ta tự hào với doanh nhân ngàn xưa, càng gắng sức hơn để làm sao xứng đáng với tiền nhân và điều quan trọng hơn là tạo thành một đội ngũ doanh nhân hiện đại hùng hậu, bao quát khắp mọi lĩnh vực lao động sáng tạo ra hết mọi của cải phong phú cho xã hội, đưa nước ta vươn lên ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực và các vùng trên thế giới.
  • Nhật Vy (Tổng hợp)  Nguồn: Việt Báo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét